KINH SÁM ĐỊA MẪU


1. Phủ Hớn Trung nơi huyện Thành Cố,
2. Tỉnh Thiểm Tây Miếu Cổ ứng linh;

3. Thượng tầng tỏa ánh quang minh,

4. Chim Loan, Mẫu ngự truyền kinh răn đời.


5. Kim ngôn Mẹ đây lời mạch huyết,

6. Đức Từ Tôn tha thiết khuyên con;

7. Hiếu Trung giữ vẹn cho tròn,

8. Mẹ hiền bố điển bảo toàn chúng sanh.


9. Tam Nhựt Mậu tâm thành kỉnh Mẫu,

10. Tấm lòng son vọng thấu Diêu Cung;

11. Gia gia sum họp trùng phùng,

12. Dân an quốc thới hưởng chung thanh bình.


13. Mùa màng được tươi xinh sung túc,

14. Mẹ độ con từng phút từng giây;

15. Núi sông Vũ Trụ đó đây,

16. Chính do Hoàng Mẫu dựng gầy tạo nên.


17. Linh Điển Mẹ dưới trên phân rõ,
18. Tâm Chơn Kinh, Mẹ tỏ lời châu;
19. Hoằng khai Đại Đạo nhiệm mầu,
20. Hóa sanh bốn biển năm châu tươi nhuần.


21. Phật Mẫu ngự thượng tầng độ thế,
22. Điển Chơn Linh phước huệ rải ban.
23. Tâm Kinh Mẫu dạy rõ ràng,
24. Con lành hiếu thảo Đàn Tràng cung nghinh.


25. Phước Lộc Thọ hiển vinh do Mẫu,
26. Trọn đủ thời Kỵ Mậu hằng niên;
27. Dân an nước thạnh nhà yên,
28. Lời châu Mẫu dạy gắng chuyên tu trì.


29. Thơ ngâm diệu Huyền Vi cơ bút,
30. Mẹ truyền kinh dưỡng dục chúng sanh;
31. Xưa Vua Bàn Cổ phong danh,
32. Diêu Trì Phật Mẫu hóa sanh muôn loài.


33. Chơn Linh Mẫu xét soi vũ trụ,
34. Điển âm dương kết tựu anh nhi;
35. Thượng tầng Mẫu ngự phương phi,
36. Phân ra Thiên Địa trị vì chúng sinh.


37. Địa Mẫu truyền Chơn Kinh tâm huyết,
38. Khí âm dương hội hiệp cùng nhau;
39. Mưa hòa gió thuận tươi màu,
40. Hóa sanh nhơn loại ngạt ngào chơn thân.


41. Vậy ai mới bước lần đường Đạo,
42. Phải giữ lòng hiếu thảo trì kinh;
43. Lời châu Mẹ dạy huyền linh,
44. Hoàng Thiên xá tội hiển vinh thanh nhàn.


45. Cầu Lịnh Mẹ bảo toàn sanh chúng,
46. Độ nhơn sanh giữ đúng hạnh Tiên;
47. Từ đây Thiên Địa phân riêng,
48. Âm dương chơn khí linh nguyên chẳng rời.

49. Nhựt Nguyệt Tinh phương trời sáng tỏa,
50. Máy Huyền Vi hiện rõ thần thông;
51. Mẹ phân Nam Bắc Tây Đông,
52. Bốn phương tám hướng bao vòng càn khôn.


53. Điển Thiên, Mẹ bảo tồn vĩnh cửu,
54. Chốn trung ương Mẹ thủ địa châu;
55. Linh quang chiếu sáng nhiệm mầu,

56. Thiên Tiên bảo dưỡng gồm thâu nhơn lành.


57. Phu quân Mẫu trường sanh bất lão,
58. Tài cao minh sáng tạo Huyền Vi;
59. Thiên Lung, Địa Á diệu kỳ,
60. Tri âm phối hợp, phục quy Diêu Đài.


61. Thiên địa lập âm lai dương khứ,

62. Khí thần giao gìn giữ Điển Linh;

63. Đất Trời do Tạo Hóa sinh,

64. Pháp luân thuần chuyển siêu hình căn nguyên.


65. Chính Mẹ tạo tôi hiền Chúa Thánh,

66. Phủ Điển Linh chơn tánh tâm thanh;

67. Chẳng ngừng hóa hóa sanh sanh,

68. Thiên Can thường chuyển vận hành Địa Chi.


69. Thần với khí tựu thì Thai Thánh,

70. Mẹ cưu mang canh cánh thập niên;

71. Tình thâm Mẫu Tử thiêng liêng,

72. Mười niên trường chuyển dụng Thánh Thai Nhi.

73. Minh quân xuất thế trần ai,

74. Sáu vì Thiên Tử phi tài huyền quang.


75. Mẹ phán Vua Thiên Hoàng con trưởng,

76. Đến Địa Hoàng, Mẹ thưởng thứ hai;

77. Nhơn Hoàng tam đệ thiên tài,

78. Còn ba vị nữa phân rày sau đây.


79. Vua Phục Hy, Ngài hay biến hóa,

80. Bát Quái phân phát họa hiển linh;

81. Chỉ rành tám hướng thinh thinh,

82. Âm Dương Vũ Trụ quang minh phân bày.


83. Vua Thần Nông phi tài ngũ cốc,

84. Sắc lịnh gieo châu ngọc khắp nơi;

85. Đó là hạt giống của Trời,

86. Sanh ra lúa gạo giúp đời an khang.


87. Vua Hiên Viên tạo ban y phục,

88. Đem ấm no hạnh phúc vạn dân;

89. Lưu truyền cơm áo chốn trần,

90. Để cho người thế tấm thân thanh nhàn.


91. Vũ Trụ do Mẫu Hoàng xuất phát,

92. Mẫu tạo ra Bồ Tát, Thần, Tiên;

93. Thượng từng bao phủ điển Thiên,

94. Chẳng rời xa khỏi Mẫu Hiền dưỡng sanh.


95. Nhìn biển cả trời thanh nước biếc,

96. Khắp bốn mùa tám tiết trở xoay;

97. Gió ngàn tỏa lượn tầng mây,

98. Hóa sanh nhơn loại cỏ cây thú cầm.


99. Có ngũ nhạc bổng trầm ngân trổi,

100. Khắp muôn nước Từ Mẫu dưỡng sanh;

101. Các đời Vương Đế đại danh,

102. Từ trong thân Mẫu trưởng thành mà ra.


103. Danh lam có năm tòa thắng cảnh,

104. Chốn lâm sơn tuyết lạnh sương rơi;

105. Có cây cổ thụ sống đời,

106. Sắc dân trăm họ do nơi Mẫu thành.


107. Năm giống lúa tươi xanh vun dưỡng,

108. Sáu thứ gạo dành thưởng nhơn sinh;

109. Nhân dân no ấm hiển vinh,

110. Sống nhờ điển Mẹ, huyền linh phủ đầy.


111. Khi lìa thế gởi thây thân Mẫu,

112. Sự hóa sanh dời đổi vô thường;

113. Thân Mẹ là chổ tựa nương,

114. Từ Tôn Địa Mẫu nguồn thương ngập tràn.


115. Nào châu quận thôn làng tỉnh huyện,

116. Kìa lâu đài, cung điện nguy nga;

117. Am, chùa, quán, xá lập ra,

118. Hiền Thần, Tiên, Thánh, Mẹ đà thưởng phân.


119. Chư Phật đắc Kim Thân do Mẫu,

120. Cả trân châu ngọc bửu đó đây;

121. Thiếu chi kẻ ước việc này,

122. Lòng tham mơ tưởng mấy ai đạt thành.


123. Loại kim khí bạc vàng quý báu,

124. Tất cả do Mẫu tạo xuất ra;

125. Vương hầu vạn quốc gia gia,

126. Cũng do Lịnh Mẹ ban ra tôn sùng.


127. Người chốn thế hiếu trung hưởng phước,

128. Bao Huyền Linh sau trước Mẹ ban;

129. Dân an, quốc thới thanh nhàn,

130. Đế Vương cung kỉnh Mẫu Hoàng Từ Tôn.


131. Trong vũ trụ tuần hoàn Tạo Hóa,

132. Do Mẫu sanh ra quả Địa Cầu;

133. Biến sanh sáu ngả luân hồi,

134. Biết bao sản vật hoa màu tốt xinh.


135. Kẻ thế đâu rõ tình thâm Mẫu,

136. Dầu Hoàng Thiên khó nổi sánh hơn;

137. Trên Trời mưa đổ từng cơn,

138. Dưới đất Mẹ hóa Huyền Chơn phép mầu.


139. Dòng mưa tuôn ngọt ngào Cam Lộ,

140. Ngũ cốc dành hóa độ nhơn sanh;

141. Cỏ cây tươi tốt hương thanh,

142. Địa châu thấm giọt mưa lành phì nhiêu.


143. Chính hơi nước thâu nhiều mạch huyết,

144. Bao tinh vi sương tuyết giá băng;

145. Đài mây gom tựu phủ giăng,

146. Gặp luồng Quang Điển biến tan mây liền.


147. Mưa tuôn xuống trần miền tỏa khắp,

148. Cù Rồng kia trốn nấp ngàn sông;

149. Lãnh phần vận chuyển gió giông,

150. Mẹ truyền hoán võ hô phong ứng hầu.


151. Cù Rồng ở xứ nào chẳng có,

152. Ẩn biển sâu làm gió chuyển mây;

153. Đều do lịnh Mẹ phán bày,

154. Ơn Trên chiếu triệu dám rày cãi đâu.


155. Muôn thu vẫn nằm sâu lòng đất,

156. Mẹ dưỡng nuôi âm chất hoằng khai;

157. Nhọc nhằn nào quản đắng cay,

158. Điển quang huyền diệu đêm ngày dưỡng sanh.


159. Chốn dương trần con lành tọa hưởng,

160. Bao nhiệm mầu Mẹ thưởng hồng ân;

161. Tất cả do Lịnh Mẫu phân,

162. Công dầy chẳng thấy người trần ghi tâm.


163. Mẹ thương con dạ thầm đau thắt,

164. Chẳng bao giờ nhắm mắt nghỉ đâu;

165. Điển quang nếu Mẹ rút thâu,

166. Càn Khôn, Vũ Trụ, Địa Cầu tiêu tan.


167. Khi Cá Ngao trở ngang vùng vẫy,

168. Thiên Địa đành chịu phải rả đôi;

169. Dương trần như thể bèo trôi,

170. Cảnh Trời trống rỗng thảm sầu nạn tai.


171. Ngoại càn khôn Như Lai tạm ẩn,

172. Chư Bồ Tát tàn lẫn biệt tin;

173. Từ Vua Chúa đến quân binh,

174. Sẽ đều tận diệt nhơn sinh điêu tàn.


175. Phương hướng đành tiêu tan tất cả,

176. Như ở trong lò hỏa bị thiêu;

177. Muôn loài vạn vật bao nhiêu,

178. Phải đành chịu cảnh quạnh hiu khổ sầu.


179. Mẹ phán truyền lời châu cao quý,

180. Ai sưu tầm diệu lý quang minh;

181. Tâm thành khảo sát Chơn Kinh,

182. Thọ trì giảng nói chúng sinh hiểu rành.


183. Từ Tôn chiếu điển lành ban phước,

184. Sắc Lịnh phê người được hiển vinh;

185. Phi tài huyền diệu cao minh,

186. Mẫu Từ giáng bút Ngọc Linh chi truyền.


187. Nhập vào tâm kẻ hiền sáng suốt,

188. Chơn khí như ánh đuốc thiên nhiên;

189. Mẫu cho phản bổn hườn nguyên,

190. Chơn thần đúng ngoạt xuất liền chẳng sai.


191. Tinh khí hiệp cho ai dưỡng tánh,

192. Gắng tâm tu hưởng cảnh Thượng Đài;

193. Khai tâm trung chuyển đạo ngay,

194. Lý chơn thông hiểu chớ rày bỏ qua.


195. Cần quán tưởng sâu xa Kinh Mẫu,

196. Chớ khoe tài nông nổi mà chi;

197. Chơn Kinh lịnh Mẹ khá ghi,

198. Quần thần, văn võ chẳng khi lời vàng.


199. Đại Từ Tôn Mẫu Hoàng cao cả,

200. Ân đức dày vong ngả đành sao;

201. Tao nhân mặc khách anh hào,

202. Nông, thương, công, sĩ, nỡ nào lảng ngơ.


203. Không đền đáp tôn thờ cung kỉnh,

204. Nỡ vô tâm chẳng kính Mẫu hiền;

205. Thâm sâu nghĩa cả thiêng liêng,

206. Đành lòng bội bạc chơn truyền lời châu.


207. Chánh Pháp đạo nhiệm mầu ai rõ,

208. Giả đò như chẳng tỏ ngộ chi;

209. Phụ ân Từ Mẫu Diêu Trì,

210. Đọa đày muôn kiếp chẳng thì tái sanh.


211. Muốn biết rõ tánh danh Phật Mẫu,

212. Hãy lắng nghe lời Mẫu phân rành;

213. Lão Bà Hỗn Độn hóa sanh,

214. Thuở còn mù mịt trược thanh chưa tường.


215. Thiên Địa chia âm dương chơn khí,

216. Thập nhị muôn niên kỷ giáng lâm;

217. Tuổi thọ chín ngàn sáu trăm,

218. Thời gian xuất thế khổ tâm nhọc nhằn.


219. Muôn ngàn năm khuyên răn dạy dỗ,

220. Ngày biệt ly diệt độ chẳng ngờ;

221. Mẫu Hoàng từ giã con thơ,

222. Hóa thân chớp nhoáng phút giờ chia tay.


223. Hư không ngự Mây Đài Thượng Cõi,

224. Điển quang minh chiếu rọi khắp nơi;

225. Huyền Vi biến hóa chuyển đời,

226. Truyền kinh châu ngọc bao lời thiết tha.


227. Chẳng thấy ai lệ sa nhớ Mẫu,

228. Chốn trường giang gợi nỗi nhớ thương;

229. Ngự thuyền lướt sóng trùng dương,

230. Nào ai để dạ vấn vương lòng sầu.


231. Mẹ thương con chẳng câu phiền trách,

232. Lòng ước mong huyết mạch trùng phùng;

233. Sớm về Điện Ngọc Diêu Cung,

234. Con lành cố gắng hiếu trung tu hiền.


235. Hội Tý Sửu khai Thiên tịch Địa,

236. Vạn sự thành hiếu nghĩa vi tiên;

237. Chơn Kinh Phật Mẫu diệu huyền,

238. Hơn trăm tám chục câu khuyên răn đời.


239. Mỗi câu mỗi ý lời Mẹ thuyết,

240. Cũng từ nguồn mạch huyết chảy ra;

241. Gồm bao lời ngọc thiết tha,

242. Đúng ngày Thập Bát trần hồng giáng sinh.


243. Mẹ phủ hết điển linh quảng đại,

244. Tâm huyết thư để lại Chơn Kinh;

245. Kim ngôn siêu thoát quang minh,

246. Từ Tôn bảo dưỡng chúng sinh an toàn.


247. Là con hiếu đàn tràng cung kỉnh,

248. Mỗi hằng niên nguyện thỉnh Mẫu Từ;

249. Đúng ngày Thập Bát Trăng Mười,

250. Gia gia tụng niệm người người trì kinh.


251. Lập Đại lễ hoa xinh, trà, quả,

252. Dâng hương, đăng tất cả khiết tinh;

253. Cùng nhau hội hiệp trì kinh,

254. Sớ Dâng Từ Mẫu chứng minh con lành.


255. Công đức Mẫu vô hình khó tả,

256. Dầu lâm sơn biển cả khó hơn;

257. Ai mà đáp nghĩa đền ơn,

258. Phải sùng Am Tự, họa sơn tượng hình.


259. Rồi dâng lên hương linh thờ phượng,

260. Tạo lập thành tâm tưởng bái tôn;

261. Diêu Trì Phật. Mẹ linh hồn,

262. Hiếu từ làm đặng y ngôn kim truyền.


263. Mẹ sẽ nhận con hiền dâu thảo,

264. Gắng sức xây tái tạo mau đi;

265. Tùy gia phương tiện hữu vi,

266. Chẳng cần tiền bạc nhiều chi đâu nào.


267. Mẫu chứng lòng thành cao tâm hảo,

268. Sẽ ghi con tên thảo danh đề;

269. Thẻ ngọc Mẹ chuyển bút phê,

270. Tâm phàm phủi sạch trở về Diêu Cung.


271. Bởi vì con tận trung tận hiếu,

272. Đắc quả cao cửu khiếu khai minh;

273. Con hiền thọ hưởng trường sinh,

274. Nhờ lòng quảng đại quang minh tâm lành.


275. Mẹ sắc tứ phong danh muôn thuở,

276. Chánh quả thành dứt nợ trần ai;

277. Ban cho Cửu Phẩm Liên Đài,

278. Trung Ương Thượng Quốc về ngay Đền Vàng.


279. Thành Đại La nghiêm trang quý báu,

280. Phu phụ đồng Đắc Đạo Kim Thân;

81. Mẹ ban thọ hưởng hồng ân,

282. Lưu danh Bửu Điện muôn phần vẻ vang.


283. Đức Từ Tôn Mẫu Hoàng bảo dưỡng,

284. Trải hết tâm vô lượng vô biên;

285. Ngự nơi cõi Thượng thiêng liêng,

286. Độ cho quốc thới dân yên thanh bình.


NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH


287. Phật Mẫu tuy vô hình vô tướng,

288. Mẹ cầm quyền phạt thưởng nhơn sinh;

289. Ban ra lời ngọc Chơn Kinh,

290. Khảo sát địa lý khai minh địa cầu.


291. Thuở hỗn độn một bầu không khí,

292. Còn mịt mù vô thủy biết đâu;

293. Phật Địa Mẫu ngự đã lâu,

294. Phật ra thiên địa hoàn cầu chuyển xoay.


295. Mẹ đứng ra làm Thầy trước nhất,

296. Đạo hoằng khai lời thật huyền linh;

297. Phổ thông truyền bá Chơn Kinh,

298. Phán bày phong tục nhân sinh sáng ngời.


299. Chốn phàm trần đến đời Nguơn Hạ,

300. Mẹ giáng cơ bút tả Chơn Kinh;

301. Ai truyền ấn tống phổ in,

302. Mẫu Hoàng bảo hộ khương ninh cửu trường.


303. Người nào đầy lòng thương tiếp dẫn,

304. Giúp chúng sanh ngộ nhận Đạo Chơn;

305. Dựng đời thạnh trị Thượng Nguơn,

306. Hết lòng chỉ giáo linh nhơn tỏ tường.


307. Khắp thế giới thập phương cung kỉnh,

308. Ráng niệm trì nguyện thỉnh lời châu;

309. Đắc thành sở nguyện mong cầu,

310. Vậy mà chẳng thấy người nào lưu tâm.

311. Xét ra khắp cả hoàn cầu,

312. Đều do Lịnh Mẹ pháp mầu chuyển ra.


313. Mẹ thương con vị tha tất cả,

314. Nào thấy ai để dạ xót thương;

315. Đắng cay khó nhọc ai tường,

316. Rõ thông nỗi khổ đoạn trường biết bao.

317. Phán truyền bày tỏ nhiều lời,

318. Hóa sanh hoằng đạo khai đời dưỡng sanh.


319. Phật Mẫu cố phân rành tất cả,

320. Bảy mươi hai vị đã lãnh phần;

321. Đương kinh hành sự xa gần,

322. Vị nào cũng có Thánh Thần họp chung.


323. Duy mình Mẫu chẳng cùng ai cả,

324. Khắp ở trong Thiên Hạ xứ nào;

325. Lập Chùa tạo Miễu, Đền cao,

326. Phụng thờ Thần Thánh ra vào cung nghinh.


327. Còn Mẫu đây riêng mình ai nhớ,

328. Đến tánh danh cũng chớ tường tri;

329. Cõi trần chẳng có chi chi,

330. Một ngôi miếu nhỏ vậy thì cũng không.


331. Bởi chúng sanh bạc lòng chẳng nghĩ,

332. Chỉ cho đời cải tạo ăn năn;

333. Chẳng luận cao thấp ngang bằng,

334. Dầu cho trẻ nhỏ lòng hằng trì kinh.


335. Chín tuổi biết cung nghinh đọc tụng,

336. Điển huyền vi hữu dụng Mẹ ban;

337. Cốt nhục xa cách lạc đàng,

338. Mẹ cho tái hợp bình an sum vầy.


339. Vui trong cảnh bao ngày cách biệt,

340. Dầu chia ly cũng hiệp cùng nhau;

341. Không phân hai bậc thấp cao,

342. Ai ai cũng được truyền trao kinh này.


343. Khắp non nước Đông Tây Nam Bắc,

344. Phổ biến kinh để nhắc nhở lòng;

345. Thập phương bá tánh rõ thông,

346. Nếu chẳng khứng thọ chắc không sanh tồn.


347. Bao nguy khốn dập dồn đau xiết,

348. Nạn Thiên tai, Thủy kiệt, Sơn băng;

349. Chúng sanh ngã gục nhào lăn,

350. Lâm vòng đại nạn thoát chăng được nào.


351. Hiện bây giờ ốm đau bệnh tật,

352. Sanh ra nhiều chứng thật gớm ghê;

353. Khắp trong tất cả thành quê,

354. Thảy đều thọ nạn ê chề khổ thân.


355. Bị nắng hạn mưa dầm ngập hết,

356. Thổ sản này ngã chết chẳng còn;

357. Đói lòng quằn quại các con,

358. Vậy khuyên ráng nhớ lời son Mẫu Từ.


359. Mẹ khuyên con Tâm Thư lời cuối,

360. Gắng tâm tu thông suốt lý kinh;

361. Truyền trao giải nghĩa phổ in,

362. Cho người trì tụng hiểu kinh kịp thời.


363. Chúng con sẽ thấy đời hết khổ,

364. Nội trong năm phổ độ đầu tiên;

365. Mưa hòa gió thuận khắp miền,

366. Mùa màng sung túc thấy liền chẳng sai.


367. Còn như đáo lệ ngày Kỵ Mậu,

368. Lập Đàn Tràng bái Mẫu trì kinh;

369. Dâng đèn sáp thiệt quang minh,

370. Từ Tôn phủ điển nhơn sinh phúc dầy.


371. Mỗi trăng có ba ngày Mậu Kỵ,

372. Hãy thành tâm bền chí cúng dường;

373. Kỉnh Đàn, Đăng, Thủy, Hoa, Hương,

374. Ngoài ra tất cả ngày thường khỏi lo.


375. Việc cúng kiến phải cho tinh khiết,

376. Cố gắng tu tha thiết cần chuyên;

377. Lo tròn phận sự hằng niên,

378. Ba mươi sáu nhựt kiền thiền trì kinh.


379. Sắm lễ vật cung nghinh Từ Mẫu,

380. Trong các ngày Kỵ Mậu lập đàn;

381. Gồm có sáu ngọn đăng quang,

382. Quả hoa tươi thắm, hương phần năm cây.


383. Sáu chung nước lọc đầy đủ lễ,

384. Cùng chung nhau họp để kỉnh đàn;

385. Thuyết kinh giải lý rõ ràng,

386. Mỗi người đều định tâm an thọ trì.


387. Ai xứ nào làm y lời dạy,

388. Định tinh thần tụng bảy biến kinh;

389. Tiêu bao nghiệp chướng tội mình,

390. Hưởng đời Nguơn Thượng Huyền Linh sanh tồn.


391. Ai cố gắng sớm hôm trì tụng,

392. Thêm hai thời chuyển dụng tâm thành;

393. Mẹ ban Huyền Diệu Điển Thanh,

394. Tự tay cứu chữa mạnh lành nội gia.


395. Đức Từ Tôn truyền ra cho biết,

396. Các con cần tha thiết ghi lòng;

397. Nơi nào kỉnh Mẹ sớm mong,

398. Trì Kinh Địa Mẫu phước thừa bình an.


399. Mẹ bảo hộ vững vàng nơi đó,

400. Được trúng mùa mưa gió thuận hòa;

401. Ai tùng phổ biến gia gia,

402. Tuyên truyền Kinh Mẫu đứng ra giải bày.


403. Phổ thông in đủ đầy nghĩa lý,

404. Mẫu sẽ sai các vị Thiên Thần;

405. Gia Thần ủng hộ ân cần,

406. Đồng theo độ kẻ xa gần thành tâm.


407. Được phúc lành tháng năm no ấm,

408. Trên Thiên Đình ghi chấm phước ban;

409. Nội gia kẻ đó thanh nhàn,

410. Được mùa thạnh phát vinh quang muôn phần.


411. Thanh Long, Bạch Hổ Thần cũng giáng,

412. Phò tá người xứng đáng con lành;

413. Từ Tôn cho biết rõ rành,

414. Trăng mười thập bát giáng sanh trần miền.


415. Đến giờ ngọ tâm thiền kỉnh Mẫu,

416. Chẳng có nên dời đổi thời gian;

417. Sửu, mùi, thìn, tuất không an,

418. Đúng giờ nhứt định lập Đàn trì kinh.


419. Cầu Lịnh Mẹ thương tình cứu khổ,

420. Phủ điển linh phổ độ chúng sanh;

421. Các con tựu họp tâm thành,

422. Được ban mầu nhiệm phúc lành khắp nơi.


423. Mẹ hiển giáng xuống đời tri chứng,

424. Phương hướng nào bền vững chí tâm;

425. Thường hành kinh Mẫu diệu thâm,

426. Ngày đêm thành kỉnh tháng năm thanh nhàn.

427. Chơn Kinh của Đức Mẫu Hoàng,

428. Gồm bao Diệu Lý lời vàng ngọc châu.


429. Kinh Địa Mẫu thấm nhuần đạo lý,

430. Gắng cần chuyên nghiệm kỹ lời khuyên;

431. Hằng ngày ròng rã khẩn nguyền,

432. Được nhiều công đức tội liền tiêu tan.


433. Điển Huyền Linh xa gần chiếu tỏa,

434. Phóng hào quang khắp cả Bầu Trời;

435. Thưởng người hiểu rõ từng lời,

436. Tâm tư kẻ đó sáng ngời Minh Châu.


437. Ai thông đạt từng câu nghiệm kỹ,

438. Đã tri tường nghĩa lý Diệu Kinh;

439. Có thể gội sạch tội mình,

440. Bao nhiêu nghiệp chướng oan tình tiêu tan.


441. Lòng Mẫu Từ nghĩ suy đau xiết,

442. Muốn hưu hủy đại kiếp phong ba;

443. Nạn Thủy Hỏa sắp xảy ra,

444. Thương cho sanh chúng phải sa cảnh sầu.


445. Ngặt chúng chẳng quay đầu trở lại,

446. Tuân theo lời Mẫu dạy trong kinh;

447. Mẹ muốn bỏ sổ tử sinh,

448. Vì thấy số phận chúng sinh chết nhiều.


449. Mẹ tính mãi bao điều phương kế,

450. Chẳng đành lòng bỏ phế lảng ngơ;

451. Tình thương vô bến vô bờ,

452. Làm sao cứu được con thơ trở về.


453. Mẹ dùng chước mầu phê Sắc Lịnh,

454. Phán nhân rằng chỉ định thế này;

455. Truyền Thần Thiện Ác đến đây,

456. Chia làm hai phái lướt mây xuống trần.


457. Người hung dữ Ác Thần dẫn dắt,

458. Nhập cùng chung kẻ bất lương tâm;

459. Độc ác, tàn nhẫn, đa dâm,

460. Chia ra tất cả chẳng lầm lộn chi.


461. Bậc hiền lương phương phi quân tử,

462. Thiện Thần gom lại giữ một nơi;

463. Đưa vào Chánh Giác kịp thời,

464. Ngày đêm tu niệm quên đời gian nan.


465. Chờ đến ngày hạ màn chung cuộc,

466. Mẫu sẽ vảy ra một cái chài;

467. Dầu cho thiện, ác phân hai,

468. Tóm thâu tất cả một chài nhốt chung.


469. Liên lụy kẻ tận trung hiếu thảo,

470. Người tu hành học đạo kinh tâm;

471. Chừng đó mới thấy diệu thâm,

472. Mẫu Từ sẽ chuyển huệ tâm trẻ lành.


473. Được sống sót nhàn thanh đủ trí,

474. Biết tường phân chánh lý đường tà;

475. Thiện gần ác lại tránh xa,

476. Từ đó các đạo mở ra khai hoằng.


477. Đồng xui lòng ăn năn qui tựu,

478. Chánh Đạo, Mẫu hội đủ đem về;

479. Chẳng còn chia rẽ khen chê,

480. Phân ra nhiều mối dễ bề tường phân.


481. Hình tướng chài phép thần mầu nhiệm,

482. Mẫu tả ra những điểm rất cần;

483. Nhị Thập Bát Tú phân thân,

484. Phủ vây chánh Bắc giáp gần chánh Nam.


485. Còn phương hướng Tây Nam Tây Bắc,

486. Các vị Thần giáp mặc lông bào;

487. Gồm sáu mươi vị tài cao,

488. Mẫu Từ phán lịnh truyền trao lời vàng.


489. Tuân lời dạy Thiên Can mười vị,

490. Thập Nhị Thần định chỉ Địa Chi;

491. Tất cả Tinh Tú các Vì,

492. Ủng hộ Hoàng Đế Thái Vi hoàn toàn.


493. Đức Từ Tôn Mẫu Hoàng điều khiển,

494. Thần Lôi Công Lôi Điển tám phương;

495. Phân thân trấn thủ phi thường,

496. Sáu mươi bốn quẻ tỏ tường diệu thâm.


497. Hiện nguyên hình tay cầm binh khí,

498. Đứng dàn ra trực chỉ đó đây;

499. Khắp trong thiên hạ đủ đầy,

500. Trận đồ của Mẫu lập xây hạ miền.


501. Cõi trời Nam từ niên Đinh Hợi,

502. Đến niên Thân, Dậu mới thiệt rồi;

503. Biết bao huyền bí nhiệm mầu,

504. Tại nơi hạ giới thảm sầu thiết tha.


505. Mẫu Từ bủa Thiên La Địa Võng,

506. Sức đại hùng vang động kinh hồn;

507. Làm cho Thiên ám Địa hôn,

508. Thần sầu Quỉ khóc vong tồn thảm thương.


509. Còn Tứ Đại Thiên Vương tiếp Lịnh,

510. Bốn cửa trận Mẫu định trấn an;

511. Tám vị Thần Lực Kim Cang,

512. Xông vào trận hóa Pháp Đàn thần thông.


513. Làm trời đất hư không nghiêng ngã,

514. Nhựt, nguyệt, tinh châu hỏa đảo xoay;

515. Cũng như chong chóng lăn quay,

516. Thế rồi lặn mất không ngày hiện ra.


517. Mẫu thâu lại yêu tà lăng mị,

518. Kẻ bất lương phải bị luật hình;

519. Hô phong hoán võ lôi đình,

520. Làm cho sóng nổ nước minh mông tràn.


521. Lửa dậy khắp dương gian nguy khổ,

522. Trận cuồng phong bão tố khắp vùng;

523. Mẫu thâu xong ngày đó bình an;

524. Nước rút sóng lặng gió tan,

525. Sẽ thấy vũ trụ dương gian tươi nhuần.


526. Chỉ còn người hiền lương sống sót,

527. Kẻ thiện lương được thoát khỏi vòng;

528. Thế là Mẫu dụng Huyền Công,

529. Diệu pháp hóa biến Thần Thông lẹ làng.


530. Kinh đô có sen vàng đua nở,

531. Bốn phía vòng khắp ở thị thành;

532. Các con hiếu thảo hiền lành,

533. Đến chừng khi đó Mẫu dành hồng ân.


534. Được đổi xác Kim Thân bất hoại,

535. Chẳng tử sanh thoát khỏi nghiệp duyên;

536. Chứng đặng Đại La Tiên Thiên,

537. Bởi nhờ cố gắng tu hiền thành công.


538. Hội Bàn Đào thưởng đồng tất cả,

539. Các con nào đắc quả dự vào;

540. Thế rồi vĩnh viễn về sau,

541. Chẳng còn chuyển kiếp khổ đau trần miền.


542. Chúng con được miên miên bất tử,

543. Khoái lạc tiêu diêu ngự cảnh nhàn;

544. Giống cảnh Diêu Điện Mẫu Hoàng,

545. Luôn hưởng lộc thọ phước an cửu trường.


546. Phật Mẫu ngự trên Thượng Tầng cõi,

547. Hoằng khai dương nhơn loại bảo toàn;

548. Hết lòng quảng đại sắc son,

549. Hóa sanh dạy dỗ các con phản hồi.


NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH

Lễ Tam Bái